1. CPTPP:Phụ lục NCM I-VN-33: Định giá tài sản
Tổ chức nước ngoài không được cung cấp dịch vụ định giá tài sản ngoại trừ:
- Trường hợp họ là tổ chức được thành lập, hoạt động cung cấp dịch vụ định giá hợp pháp tại nước sở tại, và
- Thông qua hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần với doanh nghiệp Việt Nam.
- Cá nhân nước ngoài không được cung cấp dịch vụ định giá tài sản.
2. Pháp luật Việt Nam:
a) Tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ của nhà đầu tư nước ngoài:Tỷ lệ vốn góp của tổ chức thẩm định giá nước ngoài và người đại diện của tổ chức thẩm định giá nước ngoài tham gia góp vốn thực hiện theo quy định tại Điều 18 Nghị định 89/2013/NĐ-CP[1]. Theo đó, tổng số vốn góp của cổ đông là tổ chức, thành viên góp vốn là tổ chức tối đa không quá 35% vốn điều lệ của công ty cổ phần thẩm định giá, công ty trách nhiệm hữu hạn thẩm định giá hai thành viên trở lên.
Người đại diện của thành viên là tổ chức quy định tại Khoản 1 Điều 18 Nghị định 89/2013/NĐ-CP phải là thẩm định viên về giá và phải đăng ký hành nghề tại doanh nghiệp thẩm định giá mà tổ chức tham gia góp vốn; đồng thời không được tham gia góp vốn vào doanh nghiệp thẩm định giá đó với tư cách cá nhân, không được là đại diện của tổ chức góp vốn thành lập doanh nghiệp thẩm định giá khác.
b) Hình thức đầu tư: Chỉ dưới hình thức Công ty TNHH hoặc Công ty cổ phần.
c) Phạm vi hoạt động: doanh nghiệp thẩm định giá có tổ chức thẩm định giá nước ngoài góp vốn không được thực hiện thẩm định giá đối với: (i) Các trường hợp quy định tại Điều 10 Nghị định 89/2013/NĐ-CP; (ii) Tài sản thuộc an ninh quốc phòng theo quy định của pháp luật.
d) Năng lực của nhà đầu tư; đối tác tham gia thực hiện hoạt động đầu tư: Chỉ các tổ chức thẩm định giá nước ngoài được thành lập, hoạt động cung cấp dịch vụ thẩm định giá hợp pháp tại nước sở tại thì được góp vốn với doanh nghiệp thẩm định giá Việt Nam để thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty cổ phần để kinh doanh dịch vụ thẩm định giá tại Việt Nam.
|